News Ticker

Menu

Người đóng góp cho blog

Browsing "Older Posts"

Browsing Category "su-kien"

Vietravel tiên phong mở rộng khai thác đường bay Cần Thơ - Bangkok

Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015 / No Comments
Vào ngày 21/7/2015, Vietravel và UBND TP.Cần Thơ tiếp tục khai trương chuyến bay “Cần Thơ – Bangkok”. Đường bay mới không chỉ kết nối hai thành phố du lịch nổi tiếng mà còn khẳng định vị thế hàng đầu của Vietravel, doanh nghiệp lữ hành luôn tiên phong tạo ra xu hướng đột phá, mang dấu ấn thương hiệu riêng mình.
Đường bay Cần Thơ – Bangkok - hành trình kết nối du lịch, văn hóa đặc sắc

Sau thời gian ngắn triển khai với tần suất 2 chuyến/tuần, đường bay Cần Thơ – Đà Lạt do Vietravel khai thác vào tháng 5/2015 đã thu được những thành công bước đầu. Từ thành công trên, Vietravel và UBND thành phố Cần Thơ tiếp tục thống nhất mở đường bay Cần Thơ – Bangkok (Thái Lan) phục vụ nhu cầu du lịch của người dân hai nước. Với đường bay mới này, công ty Vietravel phối hợp cùng UBND TP.Cần Thơ, Tổng cục Du lịch Thái Lan (TAT) tại TP.HCM và hãng hàng không Thai VietJet Air thực hiện đường bay. Chuyến bay đầu tiên sẽ khởi hành vào ngày 21/7 với tần suất 5 ngày/chuyến, sử dụng máy bay Airbus A320, 180 chỗ.


Sản phẩm mới này giúp du khách đồng bằng sông Cửu Long dễ dàng khám phá “xứ sở nụ cười”, rút ngắn thời gian di chuyển bằng hành trình bay thẳng thay vì phải mất 4 tiếng đi ô tô lên TP.HCM như trước đây. Là một trong những địa danh hấp dẫn nhất Việt Nam với văn hóa miền sông nước đặc sắc, Cần Thơ không những được mệnh danh là thủ phủ Tây Nam bộ mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các điểm du lịch nổi tiếng trong vùng như: Tiền Giang,Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau… Thành phố đã có đường bay thẳng đến Hà Nội, Phú Quốc,Côn Đảo, Đà Nẵng, Đà Lạt... Vì thế, việc khai trương đường bay Cần Thơ – Bangkok là cơ hội vàng để Cần Thơ quảng bá hình ảnh du lịch sông nước đặc trưng của khu vực Tây Nam bộ nói riêng và Việt Nam nói chung đến với du khách Thái Lan – một trong những thị trường tiềm năng trong khu vực Đông Nam Á.

Tour Thái Lan và dấu ấn 20 năm của Vietravel


Năm 2015, Vietravel tròn 20 năm thành lập (20/12/1995 – 20/12/2015), đó cũng là thời gian công ty tâm huyết xây dựng sản phẩm Thái Lan dành cho du khách Việt Nam. Trải qua rất nhiều cuộc biến động chính trị, khủng hoảng kinh tế châu Á… nhưng bằng chính sách phù hợp, công ty luôn giữ vững thị trường truyền thống này. Theo thống kê, lượng khách đi Thái Lan tại Vietravel chiếm 40% số khách đăng ký tour du lịch nước ngoài.

Thành công này đến từ chiến lược phát triển dài hơi, bền vững và sáng tạo cho thị trường Thái, điểm khác biệt chính là mức giá tốt nhất thị trường– thành quả của quá trình liên kết chặt chẽ với các đối tác lâu năm tại Thái Lan. Có những thời điểm, tour Thái được bán với giá “rút đáy thị trường” mà chất lượng dịch vụ không đổi đã tạo nên cơn “sốt” thực sự đối với du khách. Bên cạnh đó, chất lượng dịch vụ không ngừng được nâng lên, luôn sử dụng khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 3* trở lên, gần trung tâm thành phố nên rất thuận lợi cho du khách đi mua sắm, dạo chơi về đêm. Tần suất khởi hành dày, từ 3 – 4 chuyến/ngày và liên tục bổ sung những điểm đến hấp dẫn… cũng là một trong những lợi thế giúp Vietravel luôn giữ vững ngôi đầu trong thị trường tour Thái.


Xuất phát từ kinh nghiệm điều hành và uy tín nhiều năm nay, Vietravel quyết định xây dựng sản phẩm Thái mang bản sắc riêng. Đó sẽ là những chuyến bay thuê bao (charter), chuyên phục vụ khách hàng Vietravel với dịch vụ và mức giá tốt nhất. Trước khi khởi động đường bay mới Cần Thơ - Bangkok, công ty đã thực hiện thành công nhiều chuyến bay thuê chuyến (charter) kết nối Đà Nẵng - Bangkok; Huế - Bangkok; TP.HCM - Bangkok để phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng. Với sứ mệnh nâng cao chất lượng phục vụ, góp sức cùng các địa phương phát huy tiềm năng sẵn có, Vietravel trong thời gian tới sẽ phối hợp với một số địa phương nghiên cứu mở thêm các đường bay mới. Đây cũng là một trong những chiến lược phát triển quan trọng của công ty: tiên phong sáng tạo nên những giá trị mới, gắn kết cùng các địa phương phát triển và mang đến lợi ích cao nhất cho khách hàng.
VÉ MÁY BAY CẦN THƠ – BANGKOK
Giá vé bình quân: 2.699.000 VND/lượt (Đã bao gồm thuế, phụ phí hàng không, hành lý…)

TOUR CẦN THƠ - BANGKOK – PATTAYA (5 ngày - 4 đêm)
Bay trực tiếp từ Cần Thơ, khách sạn 3*, tặng show Muay Thái
Giá tour: 6.890.000 VND/khách
Khởi hành: 21, 25, 29/7; 2/8

Sắc màu văn hóa truyền thống dân tộc Khmer

Thứ Ba, 14 tháng 4, 2015 / No Comments
Dân tộc Khmer là một dân tộc có mặt sớm ở vùng đất Nam bộ nhiêu ngôi chùa của đồng bào người Khmer trên vùng đất này đã chứng minh được điều đó. Có nhiều ngôi chùa đã ghi dấu trong lịch sử mở cõi của Đồng bằng sông Cửu Long sớm hơn rất nhiều so với tên gọi Gia Định, một tên gọi chính thức đặt dấu ấn cho việc mở cõi và cai trị của chúa Nguyễn ở vùng đất này. Song song với việc ghi dấu ấn cho việc định cư của mình, người dân Khmer cũng kế thừa nền văn hóa Ăngco, nền văn minh lúa nước cộng với tập tục sinh hoạt của những nhóm lưu dân của người Kinh, người Hoa, người Chăm tạo nên một bản sắc, một nền văn hóa riêng của mình. Nền văn hóa đó có giá trị tiêu biểu, không lẫn lộn, pha tạp, nhưng vẫn đảm bảo yếu tố hài hòa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nền văn hóa đó cần được gìn giữ và phát huy nhằm chống sự “xâm thực” của các nền văn hóa khác, bảo toàn nguyên vẹn yếu tố gốc có như vậy mới thấy được sự phong phú đa dạng trong nền văn hóa Việt Nam.
GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA TÔN GIÁO
Trong các trường văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ thì văn hóa tôn giáo nổi lên như một sự tự nhiên vốn có, mặc dù văn hóa tôn giáo đến với đồng bào Khmer Nam bộ không phải là sớm nhất. Không phải “người Khmer thích gọi tín ngưỡng Phật giáo Theravada”, mà thật sự tín ngưỡng Phật giáo của họ là tín ngưỡng Phật giáo Theravada. Đồng bào Khmer Nam bộ nói chung sử dụng đạo Phật như một tôn giáo của dân tộc mình, các giá trị của tôn giáo đó dần chuyển thành tín ngưỡng của dân tộc ( ở đây ta tạm gọi là tín ngưỡng Phật giáo). Theravada là một bộ học thuyết được các bậc Trưởng lão ( Trưởng lão bộ ) kiết tập lần thứ nhất sau khi đức Phật niết bàn. Trưởng lão bộ là tập hợp tất cả các bài thuyết giảng của đức Phật, những người thực hành theo bộ này ta thường gọi là Phật giáo nguyên thủy ( hay tiểu thừa). Bộ kinh này sau khi kiết tập đã nhanh chóng lan truyền đến cư dân trong tiểu vùng Đông Nam Á qua đường biển từ phía Nam. Do đó ta thường gọi tôn giáo của người Khmer là Phái Nam tông, Đạo Phật nguyên thủy, Phái Tiểu thừa hay Phật giáo Nam tông Khmer Nam bộ.

Do mang trong mình tính ngưỡng Phật giáo nên các tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Khmer cũng gắn chặt với tôn giáo. Ngôi chùa của người Khmer là một giá trị văn hóa vật thể đặc biệt. Đó là nơi tập hợp cư dân trong vùng, là nơi diển ra hầu hết các lễ hội cộng đồng. Các lễ hội tôn giáo này vẩn còn được đồng bào Khmer gìn giữ và thực hành như lễ ban hành giáo lý (Bon meakh bâuchea), lễ Phật đản (bon pisakh bâuchea), lễ nhập hạ (bon chaul vâssa), lễ xuất hạ (bon chênh vâssa), lễ xuất trần (bon asoch bâuchea), lễ dân áo cà sa (hay lễ dân y – kathin năh tean), lễ an vị tượng Phật (bon putthea phisik), lễ kết giới (khánh thành chính điện – bon bânchoh seima), lễ kết giới tạm (bon bânchoh kôl), lễ hội linh (bon pchum bôn), lễ câu siêu (bon băng skâul), lễ đại cầu siêu (chhak môha băng châul), lễ ngàn núi (bon phoum pon), lễ đi tu (bon bâm bous)…Tất cả những lễ hội đó tuy rằng chỉ là lễ hộ của tôn giáo nhưng vào những ngày này hầu hết những bà con người Khmer điều tham gia như thực hiện trách nhiệm của mình với cộng đồng.
Họ cùng với nhau, người có công người có của “hùn nhau làm phước”, như cách nói của người dân Khmer. Những lễ hội đó đã được đồng bào Khmer gìn giữ và duy trì thực hành từ bao đời nay.
Tôn giáo chuyển dần sang tín ngưỡng những tưởng sẽ làm mất đi giá trị vốn có của văn hóa tôn giáo. Nhưng dân tộc Khmer đã gìn giữ nó một cách trọn vẹn thực hành một cách rốt ráo không xề xòa, qua loa. Tạo nên sắc màu riêng biệt trong các lễ hội tôn giáo so với một số dân tộc khác.
Giá trị văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc Khmer còn biểu hiện rõ ở vị trí nhà Sư. Sư cả của một ngôi chùa là trung tâm đoàn kết của cả phum, sóc. Ngày trước, khi hệ thống pháp luật vẫn còn hạn chế thì Sư cả có vị trí như một “quan tòa”. Ngôi chùa và nhà Sư của người Khmer là người nắm giữ, lưu giữ hầu hết những giá trị văn hóa. Những lễ hội lớn của cộng đồng, không nhất thiết phải là lễ hội tôn giáo thì nhà Sư vẫn có một vị trí nhất định. Trong một cuộc lễ hội nào đó (ví như Lễ hội đua ghe ngo) thì nhà Sư là người quyết định mọi việc, từ việc tuyển chọn, phân công người tham gia lễ hội, đến việc hạ thủy ghe ngo, ngày giờ tập luyện…
tap the luc de dua ghe ngho
Vị trí của nhà Sư luôn ở vị trí trang trọng nhất trong các lễ hội nên con trai trong các gia đình Khmer đến 12 tuổi thường được đưa vào chùa đi tu. Đi tu không phải là nhu cầu, mục đích cá nhân, mà là một tập tục, một sắc thái của người dân Khmer, việc đi tu này là hoàn toàn tự nguyện, có người tu 3 ngày, có người tu 3 năm hay lâu hơn. Đi tu với người Khmer là để thành người, để xã hội nhìn nhận như một người có đầy đủ tư cách về đạo đức (trả ơn cha mẹ) và văn hóa (học tập văn chương, ngôn ngữ, phong tục,…).
GIÁ TRỊ CỦA VĂN HÓA DÂN GIAN
Tín ngưỡng Tô tem của người Khmer Nam bộ cũng khắc rõ hình tượng, hoàn cảnh sống của một tộc người trên vùng đồng bằng trũng nước. Do đó không phải ngẫu nhiên hình tượng con rắn Naga được người Khmer chọn làm hình tượng chạm trổ trên các xà nhà, đầu cột, trên các vật dụng thờ cúng, trang trí trong nhà. Đặc biệt rắn thần Naga còn được xem là tổ tiên của dân tộc Khmer qua truyền thuyết về sự phối ngẫu giữa Preak Thôn, con trai thần Mặt trời và nàng Neak, con gái vua rắn Naga. Nhận thức được giá trị văn hóa của tín ngưỡng này nên hầu hết người dân Khmer không di cư, di canh, luôn “bám trụ” với vùng sông nước Nam bộ này, nơi đã sinh ra tổ tiên của mình. Dùng sức dẻo dai của loài rắn nước Naga mà sinh sống và phát triển trên vùng nê địa đầm lầy Nam bộ. nhân đó cũng sản sinh ra nhiều lễ hội mang màu sắc của nền văn minh lúa nước như cúng trăng, đua ghe ngo, đua bò,…
Từ khi được sinh ra đời đến khi trở lại với tổ tiên, người Khmer Nam bộ cũng như các tộc người khác luôn có nhiều lễ hội ghi dấu sự có mặt của mình trên thế gian này và sự hàm ơn đối với các thế lực siêu nhiên. Những lễ hội đó phần nào phản ánh được sắc màu văn hóa mang dấu ấn dân tộc tính của họ, đới với người Khmer đó là lễ cắt tóc trả ơn mụ ( pithi kat sâk bâng kâk chmâp), lễ giáp tuổi (pithi kat chup), lễ lên nhà mới (pithi lơng phteah thmây), lễ cúng ông tà (pithi đâun lơng neaka), lễ xúc hồn (pithi chênh chât prô lưng), lễ nhập thần (pithi đâun lơng arăk), lễ cúng sân lúa (pithi sên lean), lễ cúng tổ (pithi thvay kru), lễ chúc thọ (bon châmrơnpreah chôn), lễ cầu an (pithi kâm san srol), lễ dâng phước (bonđa), lễ giỗ (bon khnop 100 thngai – giỗ 100 ngày, bon khnop chnăm – giỗ năm/ hằng năm), lễ dâng bông (bon khkar), lễ khánh thành (bon sâm pith),… những lễ hội đó được thực hiện tại nhà một gia chủ nào đó nhưng không vì thế mà có thể bỏ qua những tiết lễ.
Nói đến lễ hội dân gian của đồng bào Khmer Nam bộ có thể nhắc ngay đến lễ hội đua bò của vùng Bảy núi – An Giang và lễ hội đua ghe ngo ở Sóc Trăng. Đây là hai lễ hội mang tính đặc thù chuyên biệt của người Khmer Nam bộ. Một lễ hội mang tính hàm ơn đối với thời tiết thiên nhiên, vật nuôi trong việc canh tác nông nghiệp góp phần cho mùa vụ bội thu tạo nên sức sống, sự phát triển trong đời sống của người nông dân Nam bộ; một lễ hội mang tính gợi nhớ tới quá trình khai phá vùng đất hoang vu, quá trình đấu tranh giữa các thế lực để bảo vệ cương thổ. Những giá trị đó nhất định không thể bị mai một được.
Bên cạnh những giá trị văn hóa của lễ hội dân gian như trên thì những giá trị văn hóa của các loại hình nghệ thuật đang được bà con người Khmer gìn giữ cũng là giá trị không thể bỏ qua. Nghệ thuật múa dân gian Lâm thôn từ lâu đã là nguồn cảm hứng của biết bao nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác nên nhưng ca khúc ru ngọt lòng người. Nghệ thuật múa trống sadâm, nghệ thuật múa cổ rôbăm, nghệ thuật hát aday, nghệ thuật tuồng cổ dìkê, dùkê,…tất cả đều có giá trị văn hóa riêng biệt cần phải kiểm kê một cách kỷ lưỡng nhằm gìn giữ và lưu truyền cho hậu thế.
Không chỉ có vậy, giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc của dân tộc Khmer trên vùng đất này còn có những ngành nghề nông nghiệp truyền thống như làm lúa nước, làm khô, chế biến thức ăn,…đặc biệt món mắm pàhoóc và cốm dẹp nổi tiếng thơm ngon, là đặc sản mang dân tộc tính rõ rệt của người dân Khmer Nam bộ. Bên cạnh đó là những vật dụng sinh hoạt hằng ngày, vật dụng bắt cá,…do người Khmer chế tác ra cũng có phần khác biệt với nhiều dân tộc khác. Bên cạnh văn hóa lễ hội truyền thống, văn hóa nghệ thuật thì văn hóa ẩm thực và ngành nghề truyền thống có giá trị đặc biệt quan trọng cần phải ra sức kiểm kê và gìn giữ cẩn thận. Đó là cách ứng xử khoa học và văn minh đối với các giá trị văn hóa.
Nhận thức được những giá trị văn hóa vô song đó trong nền văn hóa đầy màu sắc của đồng bào dân tộc Khmer. Chúng ta cần phát huy để những giá trị đó ngày càng trở nên rõ nét hơn trong nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Có như thế những giá trị văn hóa đó mới thực sự đi vào đời sống xã hội và cả thế giới sẽ hiểu rõ hơn nền văn hóa đa sắc tộc của Việt Nam. Để phát huy các giá trị mà chúng ta đã khẳng định đó, trước hết phải khẩn trương, kiểm kê một cách đầy đủ để hiểu hơn nền văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer nhằm đề ra kế hoạch gìn giữ, bảo tồn để các giá trị của nền văn hóa đó không bị mai một dần đi.

Lễ hội Vía Bà Thiên hậu

Thứ Hai, 13 tháng 4, 2015 / No Comments
Vào năm 1898, để thuận đường mua bán, có hơn bảy trăm Hoa kiều từ khắp nơi hội tụ về sống cặp mé sông Cà Mau họ vừa buôn bán, vừa định cư. Với tính cách và phong tục tập quán của mình và phần nào hỗ trợ, giúp đỡ nhau nơi đất khách quê người, nên vào đầu năm 1903 (Quý Sửu), miếu Bà Thiên Hậu được xây dựng.
  • Những điểm đến lý tưởng cho đi du lịch hè này.

Hàng năm vào ngày 23/3 Âm lịch, người dân nơi đây lại tổ chức lễ hội rước vía Bà. Lễ hội thu hút rất đông du khách đến tham dự, trong đó đa số là người Việt gốc Hoa từ các tỉnh lân cận hành hương về chiêm bái, cầu xin làm ăn, trả lễ và rước lộc về nhà. Ngày nay, miếu Bà Thiên Hậu tọa lạc tại Phường 2, thành phố Cà Mau. Đây được xem là hội quán của cả cộng đồng ba dân tộc Kinh- Hoa- Khmer, một di tích văn hóa đáng được trân trọng và cần được bảo tồn.
Ảnh: Văn Đum

Truyện kể Bác Ba Phi

/ No Comments
Bác Ba Phi là nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884- 1964). Ông vốn là một nông dân tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau,Ông có khiếu kể chuyện rất hóm hỉnh và đặc sắc, được nhiều người ưa thích…
Ông sinh ra tại tỉnh Đồng Tháp, do gia đình quá nghèo nên từ nhỏ ông phải đi cày thuê để nuôi tám người em nhỏ. Khi 15 tuổi, mẹ ông qua đời, ông trở thành lao động chính của gia đình. Tuy cuộc sống cơ cực, ban ngày phải đi khẩn hoang, cày cuốc ruộng vườn, nhưng đến ban đêm, ông thường tham gia tụ họp đờn ca. Ông được bà con trong xóm mê tiếng ca và nể trọng tính tình vui vẻ, bộc trực, khẳng khái, đặc biệt là những câu chuyện kể và cách kể chuyện lôi cuốn người nghe của ông.

Vốn làm tá điền cho Hương quản Tế- một địa chủ giàu có vùng Bảy Ghe, ông được Hương quản Tế hứa gả cô con gái là Ba Lữ với điều kiện phải làm công trong ba năm. Nhờ sức chịu thương chịu khó, nên sau ba năm thì ông cưới được vợ. Cũng do điều này mà Hương quản Tế rất yêu thương người con rể và đã cắt chia cho vợ chồng Ba Phi khá nhiều đất. Cộng với sự cần cù sẵn có, ông đã ra sức khai khẩn phần đất được chia thành đồng ruộng cò bay thẳng cánh.
Ảnh: Internet
Hai người lấy nhau một thời gian mà không có con, vì vậy bà Ba Lữ đã đứng ra cưới vợ hai cho chồng. Bà này sinh được một người con trai là Nguyễn Tứ Hải. Không rõ lý do gì mà khi Nguyễn Tứ Hải mới ba tuổi, bà đã gửi con cho chồng rồi về quê ở Mỹ Tho cho đến lúc qua đời. Ông Nguyễn Tứ Hải về sau lập gia đình với bà Nguyễn Thị Anh, sinh hạ một người con trai tên là Nguyễn Quốc Trị. Trong những câu chuyện của Bác Ba Phi thì đây là nhân vật thằng Đậu nổi tiếng với thành ngữ “Tệ như vợ thằng Đậu” được dùng để chỉ những người vụng về. Về sau bác Ba Phi cưới thêm vợ ba. Bà tên Chăm, là người dân tộc Khmer. Bà sinh được hai đứa con gái. Bác Ba Phi qua đời ngày 03/11/1964 tại rừng U Minh Hạ, nay là ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Phần mộ của ông được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và Bà Chăm tại ấp Đường Ranh, xã Khánh Hải nằm ở một góc rừng U Minh Hạ.
Hiện nay, khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi được xây dựng thành tuyến văn hóa du lịch Cà Mau. Những câu chuyện kể của ông, truyện nào cũng mang lại cho người nghe trước hết là tiếng cười sảng khoái, mượt mà âm sắc trào lộng, rất đặc hiệu Ba Phi. Đồng thời, nó còn ẩn chứa tính hào hùng của lớp người đi mở đất, tính cách đặt trưng, lòng yêu thiên nhiên và con người của người dân Nam Bộ.
Theo sách: “Cà Mau điểm hẹn”
Vỏ quýt dầy, móng tay nhọn
bacba1
Dân sống vùng quê sợ nhất là mỗi lần nghe lính đến càn. Chữ “càn” của nó rất đa nghĩa. “Càn” gà vịt của người ta, “càn” cả phụ nữ, già hổng bỏ, nhỏ hổng tha. Ngoài ra, mục tiêu chính nữa của chúng trong các cuộc đi càn là càn của cải, tiền bạc.
Mới sáng sớm, mà Hai Lúa đã qua tìm tao than thở :
– Kỳ này, tụi lính đồn nó đi càn quặn dữ đa. Nó đã hốt sạch bầy vịt hai trăm con, không còn lấy một mống.
Tao chưa kịp trả lời thì thằng Tư Ruộng đã chống xuồng qua tới :
– Chú Ba ! Tụi lính đồn đã khen con heo của tui hai tạ mấy, nó còn khen tui khéo nuôi nên con heo mập ú ù.
Nghe nó nói, tui tức muốn ói máu.
Câu chuyện chưa dứt, thì xuồng của bọn lính đã tới lộ quẹo. Bọn chúng đi tới đâu, heo, gà, vịt kêu nhoi trời tới đó khiến Ba Phi này nóng mũi. Vỗ vai Hai Lúa, an ủi Tư Ruộng, tao gằn lời :
– Được. Mọi người cứ để tui kêu tụi nó thả vịt, heo ra cho. Giờ Tư Ruộng ra đầu hè lượm mớ bọng dừa khô gom lại, nhóm lửa đốt cho có than.
Thấy thằng trưởng đồn dẫn lính tới sát vách nhà, tao cố nói lớn :
– Nhóm cho có thật nhiều than nghen ! Còn tui sẽ xuống mương mò bậy vài chục tôm càng xanh lên làm mồi nhậu chơi.
– Bộ trong mương vườn ông có tôm càng hả ? – Tên trưởng đồn sáng mắt.
Tao lặng thinh, lẳng lặng cởi áo lội xuống kinh bắt đầu vớt tàu dừa, mo nang, bọng dừa quăng lên bờ cho sạch hai bên bờ kinh. Sau đó, tao mò theo cặp nước bắt tôm thảy lên, kêu Hai Lúa, Tư Ruộng bỏ vô bếp than nướng, rồi rủ thằng trưởng đồn cùng nhậu.
Ăn một hơi hết mấy cái đầu tôm, uống hết mấy chung rượu áp sanh đậm đà hương vị nên thằng trưởng đồn khoái chí :
– Này, bác Ba! Bác có thể kiếm cho tui mấy cái mương vườn kiếm tôm ăn chơi không ?
– Ôi thôi !–tao xua tay nói xỏ – Mò tôm chi cho cực. Nội ba con gà, con vịt ông nhậu khẳm rồi, lặn hụp chi cho nó lạnh.
Biết tao nói lẫy nên thằng trưởng đồn cụng ly nốc cạn, rồi quay ra nói lớn :
– Tụi bây đâu ! Trả heo, trả vịt hết đi rồi hết thảy lột đồ nhảy xuống mương mò tôm càng về tao nhậu một bữa cho đã coi.
Thằng đồn trưởng lại tiếp tục nhậu, trong lúc tụi lính ngâm mình đến lạnh mặt, xanh môi mà chẳng được con tôm nào, đã thế còn bị thằng trưởng đồn mắng như tát nước vào mặt.
Tao gục gặc đầu :
– Muốn mò có tôm, trước hết để có tôm phải làm sạch mương như tao đã làm lúc nãy, tụi bây làm không đúng bài bản thì làm gì có chớ.
Đám lính lại nhảy xuống mương dọn sạch mấy chục liếp vườn cho tới khi trời tối. Cuối cùng tụi nó xúm nhau khiêng thằng đồn trưởng say mèm ra về, bỏ luôn cuộc càn.
Đêm đó, Tư Ruộng và Hai Lúa đều muốn biết tại sao tao mò có tôm, còn chúng thì không, tao vuốt râu cười khà :
– Tôm ấy là do tui bắt ngày hôm qua. Khi chúng đến, tui xách rọng tôm ra thả xuống rồi lại bắt lên, khó khăn gì nào.